TÌNH YÊU VÀ BÊN KIA CHÂN NÚI
Truyện ngắn : kể về sức mạnh của tình yêu và những oan nghiệt mà nó có thể gây ra.
By Nguyễn Thiên Ngân.
Những kẻ đã vượt qua núi đều ra đi vĩnh viễn. Cho đến một ngày nọ chàng đã không trở về nữa, thì nàng tin bên kia núi là địa ngục. Bởi chàng đã hứa rằng chỉ khi phải chết, chàng mới xa nàng.
Giữa làng có một cái hồ nước lớn. Người trong làng sống kín đáo, ẩn dật đến đáng sợ. Những người từ phương xa đến đổi trà cứ mỗi ba tháng mới được vào làng một lần. Tất cả bọn họ đều phải long trọng thề rằng ngoài trà - những sản vật trao đổi với dân làng bằng những nhu yếu phẩm khác - họ không được mang theo bất cứ điều gì: những câu chuyện về ngôi làng, những điều hơi lạ lùng mà họ thấy. họ cũng không được mang đến bất cứ tin tức nào từ thế giới bên kia núi. Trái lời, sớm muộn gì họ cũng sẽ bị thần Hổ trừng phạt.
Và quả thật sau cái chết của một người đổi trà, không ai dám khinh mạn thần hổ. Chàng đã chết thảm khốc sau lần dan díu với một cô gái trong làng và định đưa cô trốn đi trong đêm, chàng đã té xuống hồ và đã bị thần hổ nhấn chìm trong tuyệt vọng. Khắp người chàng mang nặng những bao trà vừa đổi được trong mấy ngày trước đó, làm cho chàng không thể bơi được. Xác chàng trôi lênh đênh giữa hồ 3 ngày đêm.
Người trong làng chạnh lòng thương mang thuyền ra vớt, nhưng như có một bàn tay vô hình ngăn cản, không ai có thể chạm vào cái xác vô hồn của chàng. Người trưởng làng phải ra hồ cầu khẩn hồi lâu, cái xác kia mới cập vào mạn thuyền. "Vì sao con muốn ra đi? Tại sao con phải trốn? Chỉ cần con nói thực là muốn từ bỏ dòng tộc, quê hương, chúng ta sẽ để cho con đi thôi mà". Trưởng làng ôn tồn nhìn sâu vào mắt cô gái đang ngây dại ôm thân xác của người tình vào lòng.
Cô gái bật khóc, rồi lại rú lên những tràng cười man dại. Ít tháng sau bụng cô to dần. Sau đó sinh con xong nàng trầm mình xuống hồ. Trưởng làng tự tay chèo thuyền ra giữa hồ vớt cô gái xấu số lên, đôi mắt cô đỏ kè như đang khóc. Cô được chôn cất với những mảnh lụa bạch lấy từ kho lụa táng của làng quấn quanh người, nghi thức chỉ dành cho thân tộc của trưởng làng, không ai bình luận gì về nghi thức có phần thiên vị đó. đã dành cho đứa con gái hư hỏng đã từng định bỏ làng mà đi, và bây giờ đã tự tử theo người tình, để lại đứa con hoang. Chỉ có điều, cặp tình nhân không được nằm cạnh nhau. Nàng yên nghỉ trong nghĩa địa của làng quanh năm tung bay cờ lụa trắng và tràn ngập mùi hương của hoa nhài. Còn người yêu của cô, nằm chơ vơ trong nấm đất nhỏ bên con đường lớn, nơi mà chàng từng vượt qua, để đến được làng này. Con đường ấy dẫn về phía bên kia núi.
Đứa bé trai vừa mới ra đời, được trưởng làng mang về nhà nuôi, cho bú nhờ con gái ông, lúc này cũng vừa sinh được một bé gái. Bé gái ấy là nàng, Người trong làng rỉ tai nhau, đó là do lương tâm ông cắn rức, vì những lời cuối ông nói với cô gái, mẹ của đứa bé, hình như ông đã góp phần dồn đẩy cô vào cái chết tức tưởi.
Thế rồi, hai đứa bé kia với những ngày thơ ấu, thường rượt đuổi nhau len lõi qua những đồi trà, hoặc ngồi phệt xuống nghỉ bên ngôi mã hoang. Chàng thường tần ngần nhổ những chân nhang cũ đã nhạt mầu lên nhìn thật lâu như muốn biết rõ một điều gì. Lúc ấy cả hai đứa trẻ đều chưa biết về người nằm dưới mộ. Nhưng sau này lớn lên, biết chuyện, nhớ lại.... ánh mắt chàng rưng rưng, khi thì thầm trò chuyện với những chân nhang, nàng hiểu được mối ràng buộc vô hình của tình máu mủ, dù họ chẳng bao giờ có cơ hội biết về nhau.
Chàng và nàng thường nằm gối đầu lên mộ, cố đặt tên cho những hình thù của những đám mây trên bầu trời xanh. Chán chê nàng hỏi chàng, con đường này sẽ dẫn tới đâu, bên kia núi có những gì...Chàng trầm ngâm hồi lâu rồi quay sang thì thào: "Ngôi mộ này không phải của người trong làng. Bên kia núi chắc phải có một ngôi làng nào đó...."
Ông ngoại nàng yêu thương chàng một cách lạ lùng. Lúc nào ông cũng cao vời, đường bệ với tư thế là một trưởng làng, đôi khi lạnh lùng đến đáng sợ. Nhưng riêng với chàng, ông yêu chiều ra mặt. Chàng lớn lên thông minh đĩnh ngộ. Chàng luôn hầu ông những lúc ông uống trà dù là buổi sáng hay những đêm trăng thanh, đối với ông, không có chú tiểu đồng nào có thể làm ông vừa ý, ngoài chàng.
Đôi lúc ông cao hứng đọc thơ cho chàng nghe, đôi khi lại bồn chồn tâm sự như với một người bạn tri âm, tri kỷ. Có lẽ, tất cả sự ân hận năm nào đã chuyển thành một sự thương mến. Ông ôn tồn, dịu nhẹ, chẳng mắng chàng bao giờ, kể khi chàng gây ra tội lỗi tày đình nhất. Lừa khi ông ngủ có lần chàng lén lấy chơi rồi làm vỡ miếng ngọc quí hộ thân mà lúc nào ông cũng đeo bên mình. Ông nhìn những mảnh vỡ đầy đau xót, thu nhặt chúng cho vào một túi lụa rồi bỏ đi, không nói tiếng nào. Cả nhà ngơ ngác nhìn nhau, còn chàng thì cởi trần quỳ giữa sân, run bần bật, nhưng một trận roi da nát thịt đã không xảy ra.
Tuổi thơ của chàng trôi qua yên bình, chàng chẳng hề thắc mắc vì sao mình không có cha, yên lòng với câu chuyện thô vụng mà người trong làng bịa ra dưới lệnh của ông. Ai đó đã đem trồng cạnh mộ mẹ của chàng một cây nguyệt quế. Ít lâu sau nó ra hoa rải trắng một vùng. Trên thảm hoa đó, không ít lần, nàng thấy chàng cô đơn nằm khóc, về nỗi đau vô thức của thân phận mình. Nàng thường nhặt những đóa hoa tinh khôi cho vào túi lụa nhỏ đặt trên đầu giường của chàng. Đến một lần chàng bắt gặp. Và đó cũng là lần đầu tiên chàng hôn nàng. Năm đó cả hai đều vừa tròn 16 tuổi.
Lần đầu tiên ông ngoại nàng trừng phạt chàng, là khi ông bắt gặp họ hôn nhau ở bụi cây nguyệt quế ấy. Ông sững sờ đánh rơi những hoa huệ trắng đang cầm trên tay, xềnh xệch lôi chàng ra hồ. Ở đó, ông nhấn nước chàng thừa sống, thiếu chết, cùng với những cái tát túi bụi vào mặt. Phải đến gần như khi cả làng kéo ra can ngăn, ông mới buông chàng ra, lúc đó chàng tơi tả như một miếng giẻ rách, ông ném vào chàng cái nhìn phẩn nộ rồi phừng phừng bỏ đi.
Họ bị cách ly gắt gao, nhưng không bao giờ chịu đầu hàng. Trong mắt làng tộc, hai đứa cháu đáng yêu bỗng trở nên lì lợm, bất trị. Không được đến gần nhau, nhưng ánh mắt đắm đuối mà chúng vẫn dành cho nhau như thách thức mọi lời cấm đoán. Không biết bao đêm mẹ nàng đã khóc lóc, van xin con gái. Tình yêu ấy quá tội lỗi. Con và nó đã cùng lớn lên cùng nhau, bú chung bầu sữa, có chung một gia đình. Làm sao con có thể yêu chính anh trai của mình?!
Lần thứ hai, ông lại bắt gặp chàng ôm nàng giữa gian phòng thơm ngát những khay trà vừa mới xấy thơm phức. Ông tuốt cây kiếm treo bên tủ thờ kề vào cổ chàng, mắt hằn lên những tia máu: "Tao nhắc lại lần nữa, tránh xa nhau ra, nếu không tao giết hết". Ôngbất chợt vung kiếm, chém bay một bím tóc của nàng, Giọng ông run run "Mày....mày nghĩ mày có thể quyết định cuộc đời của mày sao? Với thằng con hoang này?!!. Bóng kiếm sắc lạnh soi rõ niềm đau đớn trong mắt chàng. Nàng không sợ chết. Nhưng nàng hốt hoảng nhận ra vòng tay ôm của chàng đã dần lơi ra.
Ít lâu sau đó, chàng bỏ làng đi biệt tích. Chàng trốn theo đoàn người đổi trà, men theo con đường qua ngôi mả cũ dẫn đến bên kia núi. Nơi đó chàng tin tưởng có một ngôi làng khác....
Đọc bức thư chàng để lại, trưởng làng ngồi ôm đầu ở bậc cửa, không nói một lời. Rồi ông đứng dậy, rút cây kiếm đâm một nhát thật mạnh vào bục gỗ gần tấm phản, chỗ chàng hay quỳ để hầu trà....Nhiều năm sau, cây kiếm vẫn còn nguyên ở đó.
Còn nàng tự giam mình trong nhiều ngày, khóc đến kiệt sức. Không khí trong gia đình nặng như đá. Người trong làng lại có chuyện để xầm xì.
Khi nỗi đau kia tưởng đã dần nguôi, tóc nàng đã dài trở lại, thương nhớ trong nàng dường như đã chai đá thì chàng đột ngột trở về. Đứng lẫn trong đám người đổi trà đanglong trọng tuyên thệ trước thần Hổ, không ai nhận ra chàng. Nhưng nàng, dù với bộ râu quai nón kia xa lạ đến mức nào, dù da chàng có xạm đen đến đâu, dù chàng đã cao lớn, rắn rỏi thế nào, nàng không bao giờ quên được đôi mắt u buồn kia. Đôi mắt đã ám ảnh trái tim nàng từ thuở còn thơ dại, nàng đánh rơi nia trà. Chàng giật mình quay đi, khuất sau những giải lụa phất phới.
Nàng len lén nấp sau những dải cờ lụa trắng ngoài nghĩa trang, khóc khi thấy dáng chàng quen thuộc bên cây nguyệt quế cạnh mộ mẹ. Rồi không thể nào chịu nổi nữa, nàng vùng chạy đến ôm chầm lấy chàng, tấm lưng chàng giờ đã rộng, đã vững chải lắm rồi, nàng ngửi thấy mùi mồ hôi ấm áp quen thuộc lẫn với mùi gió, mùi núi sông sau làn vải áo thô kệch, chàng quay lại ôm nàng thật chặt, mắt đẫm nước, run run không nói nên lời. Nàng chùi nước mắt vào ngực chàng, nói câu đầu tiên sau bốn năm chia cách.
- Đưa em đi!
- Đi đâu ? - chàng thảng thốt.
- Sang bên kia núi.
Đêm hôm đó, trong trí nhớ của ông, trời tối đen giống hệt năm nào chàng trai đổi trà định dẫn cô gái làng bỏ trốn. Ông đứng đợi bên bờ hồ, tay cầm cây kiếm đã từng kề cổ chàng cũng như đã thô bạo cắt đứt bím tóc nàng và cô đơn cắm trên kệ gỗ với những nỗi niềm suốt từng ấy năm lúc chàng lưu lạc . Nó tưởng ông không nhận ra nó sao? Đôi mắt ấy, cung cách cam chịu ấy....Nó đã lớn lên trong tầm mắt ông, từng ngày và cả trong trái tim của ông nữa.
- Đứng lại, giọng ông khàn đặc. Ánh kiếm loé lên như vệt trăng mờ xám lạnh. Hai đứa quỳ sụp xuống. Nàng khóc oà:
- Ông để bọn con đi.
Ông thẩn thờ ném cây kiếm xuống khi nghe tiếng khóc của đứa cháu gái xinh đẹp. Nó đang van xin ông cho nó được hạnh phúc. Ông quỳ phệt xuống trước hai đứa. Mơ hồ, ông nghe tiếng hai đứa trẻ ngày nào thơ bé, những tiếng cười trong trẻo, náo nức, vui tươi như vọng về từ những ngày tháng xa xưa....Xen vào đó là hình ảnh chập chờn kinh hãi của một quảng đời ông không bao giờ muốn nhớ....
Năm ấy, cha ông hận người vợ bội bạc nên dắt ông - lúc đó mới 3 tuổi - bỏ đi. Ông vượt núi đến vùng này lập làng. Và cha ông trở thành trưởng làng, đề ra bao qui ước quái lạ, vịn vào lời nguyền của thần Hổ, ai muốn bỏ làng ra đi phải tuyên hứa bỏ làng, bỏ máu mủ và dứt khoát không được trở về.
Không ngờ, chính ông - con trai trưởng làng - lại là người đầu tiên rời bỏ làng, ông say sưa với thế giới rộng lớn bên ngoài, yêu và được yêu, nhưng rồi đến lượt ông cũng bị người đàn bà ấy phụ bạc. Bế đứa con gái khóc oe oe vì khát sữa, ông chẳng biết đi đâu. Rồi cuối cùng, ông quyết định trở về làng.. Cha ông thương đứa con trai nông nổi, đã dựng lên một câu chuyện để có thể đón ông trở về. Không lâu sau đó, cha ông cưới cho ông một cô gái nhu mì, hiếu thuận trong làng. Còn đứa con gái nhỏ được gửi cho một bà góa nuôi dưỡng và giấu biệt tung tích.
Từ đó ông chỉ có thể đứng xa nhìn nó từ lúc lẫm đẫm theo bà goá đi hái trà cho đến khi biết nhảy chân sáo và chơi trốn tìm giữa những đồi trà xanh biếc. Ông đau đớn tột cùng khi nhận ra, càng ngày nó càng xinh đẹp giống hệt người mẹ bội bạc của nó. Chưa bao giờ ông được ở gần con gái như cái ngày chèo thuyền ra giữa hồ để bồng thi thể nó lên. Lúc ông chạm vào thi thể cóng lạnh ấy, khóe miệng nó ứa đầy máu tươi. Ông đã lén chùi sạch vết máu ấy trước khi đưa nó lên bờ, để tránh ánh mắt dò xét của dân làng. Con gái ông, đứa con gái không được thừa nhận, rồi cũng đến lúc nó muốn theo người lạ rời khỏi làng, mà không biết đằng sau ngọn núi kia có biết bao là gian dối....
chàng buông nàng tay nàng ra. Đêm đó, cả ba linh hồn đều gục chết, sau lời sám hối của ông và những bí mật kinh khủng được tiết lộ.
Chàng trai trẻ có đôi mắt buồn rời làng một mình vào lúc rạng đông. Ngang ngôi mả hoang bên đường dẫn qua bên kia núi, Chàng quỳ xuống, rút mấy nén nhang cũ, dập đầu lặng lẽ khóc. Rồi chàng đứng lên đi tiếp chặng đường qua phía bên kia núi. Không ai thấy cảnh ấy. Làng đang có đại tang. Sáng hôm đó, người ta thấy thi thể vị trưởng làng nổi lềnh bềnh trên mặt hồ. Thần hổ lại lấy đi một mạng người.
Cô cháu gái xinh đẹp của ông ngồi câm nín bên bờ hồ, tóc đẫm sương đêm. Không ai đọc được trong đôi mắt ngây dại của nàng chỉ in hằn một khoảnh khắc: Lúc chàng vụt đứng dậy, chạy điên cuồng trong bóng đêm, và sau đó nàng không còn thấy gì nữa.
Còn lại nàng và ông. Ông cúi xuống vỗ về nàng, nói khẽ lời hối lỗi ngàn lần, rồi từ từ bước về phía bờ hồ thăm thẳm, với một vẻ cương quyết và thanh thản lạ lùng.
Không có phép lạ nào trên đời này có thể níu giữ bước chân ông lại...
Nguyễn Thiên Ngân
Post a Comment