Saturday, August 31, 2013

NHỮNG THỬ NGHIỆM MÁU ĐỂ BIẾT VỀ SỨC KHỎE

NHỮNG THỬ NGHIỆM MÁU ĐỂ BIẾT VỀ SỨC KHỎE


Theo Mới Magazine

(chuyencamcuoi.blogspot.com) - Để luôn luôn giữ được sức khỏe tốt, cần phải khám tổng quát thường xuyên. Với lứa tuổi 20, 40, 50, 60, 70, mỗi lứa tuổi cần có những phương cách thử nghiệm khác nhau.

* Kiểm soát huyết áp: Nếu các chỉ số huyết áp cao hơn bình thường (14/9 m m thủy ngân), cần tiến hành xét nghiệm thêm những chỉ số khác.

* Đánh giá nguy cơ về tim mạch của bản thân: Dù là nam hay nữ, một xét nghiệm máu đơn giản nhằm xác định hàm lượng đường trong máu, cholesterol trong máu....Có 2 yếu tố nguy cơ về tim mạch (thuốc lá, bệnh tiểu đường), trọng lượng cơ thể (quá cao....), cần đề cao cảnh giác hơn.

* Nếu thấy bị đánh trống ngực: Là biểu hiện của chứng thổi tim, biểu hiện từ di chứng tiền sử bệnh tim gia đình (trong gia đình đã có người thân mắc bệnh tim mạch....) nên đến gặp bác sĩ chuyên khoa tim mạch và nội khoa tổng quát.

*Nếu là nữ, nên đi khám phụ khoa: Theo quy tắc chung hai lần lấy chất trét lên phiến kính (để quan sát qua kính hiển vi) được làm cách nhau 1 năm, những lần tiếp theo được thực hiện cách nhau từ 2 - 3 năm....nếu kết quả xét nghiệm là bình thường. Trước khi sử dụng thuốc ngừa thai, nên xin xét nghiệm máu.

* Nếu có tiền sử bệnh gia đình về ung thư vú: (tức là có mẹ, dì, chị gái mắc bệnh ung thư vú....) nên đi xét nghiệm chụp ảnh vú từ 15 năm trước tuổi phát triển ung thư vú của người thân.

* Kiểm tra thị giác: Nếu thấy có rối loạn thị giác đặc thù (cận thị, loạn thị, viễn thị...) hằng năm nên đến khám tổng quát ở chuyên khoa mắt.

* Nốt ruồi: Cần có bác sĩ (chuyên khoa ung thư, chuyên khoa nội tổng quát, chuyên khoa về da) biết về bất cứ nốt ruồi sần nào xuất hiện trên da có thay đổi hình thù, đặc biệt là nốt ruồi.

Hiểu biết về những kết quả xét nghiệm máu

Tờ xét nghiệm máu ghi toàn những thuật ngữ chuyên môn về huyết học, ký hiệu được viết tắt và con số rất khó giải mả đối với người không chuyên môn để hiểu biết được kết quả. Một số chi tiết thực tiển giúp bạn tự hiểu về trạng thái sức khỏe của bản thân qua thử nghiệm máu.

Huyết học

Số đếm và công thức máu và tiểu huyết cầu (NFS): NFS là xét nghiệm khảo sát về những loại tế bào khác nhau có trong máu. Cần biết hồng huyết cầu (RBCs), bạch huyết cầu (WBc) tiểu thuyết cầu (platelets) hoặc những loại tế bào rất bình thường tùy theo từng tình huống bệnh trạng.

Hồng huyết cầu: Bình thường số lượng từ 4 đến 5,5 triệu/m m3 máu (số đếm hơi cao hơn ở nam giới so với nữ) Ngoài số lượng hồng huyết cầu còn nhiều chỉ số khác đặc biệt về thể tích, tỷ trọng (VGM) và nồng độ hồng huyết cầu. Ví dụ, chỉ số về thể tích thấp hơn gíá trị bình thường là do cơ thể bị thiếu máu do thiếu chất sắt.

Hemoglobine (HB): Hermoglobine là một chất chứa trong hồng huyết cầu tạo khả năng truyền tải dưỡng khí tới tất cả các mô trong cơ thể và truyền tải thán khí từ các mô về phổi - bình thường từ 12 tới 16/100mi (thường có chỉ số hơi cao hơn ở nam giới so với nữ giới).

Tỷ lệ Hemoglobine: giúp đánh giá về chứng thiếu máu tiềm năng. Hemoglobine giảm đáng kể. Người ta cảm thấy rất mệt mỏi, cảm thấy như bị đứt hơi. Hạ tới dưới một ngưỡng nào đó thì phải được truyền máu, tỷ lệ Hemoglobine trong máu quá thấp sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe.

Bạch huyết cầu: Bạch huyết cầu tham gia vào quá trình phòng vệ của cơ thể. Bình thường có số lượng từ 4,000 - 10,000/m m3 máu. Quan trọng nhất là biết được số lượng tế bào trong từng họ bạch cầu. Loại bạch huyết cầu đa nhân trung tính bình thường có nhiều hơn ở người lớn, có thể tăng khi cơ thể nhiễm khuẩn. Tế bào bạch huyết cầu là họ bạch cầu quan trọng thứ hai có thể tăng khi cơ thể bị nhiễm siêu vi trùng. Bạch huyết cầu là ái eosin tăng trọng một số loại dị ứng...

Tiểu huyết cầu: Tiểu huyết cầu do tủy xương sản sinh ra và giữ vai trò quan trọng trong sự đông máu. Bình thường có từ 50,000, 400,000/m m3 máu, ở dưới một ngưỡng nào đó dễ xảy ra nguy cơ chảy máu. Trong một số tình huốn (sau khi đã được giải phẩu cắt lách, một số loại ung thư....) số lượng tiểu huyết cầu có thể tăng.

Tốc độ lắng huyết cầu (hay tốc độ huyết trầm): Trong trường hợp quá cao, chỉ số về tốc độ lắng máu cho biết về một loại viêm hiện hữu (khi bị nhiễm khuẩn, bệnh tự miễn dịch, ung thư...). Bình thường máu lắng từ 4 - 10 mm sau 1 giờ.

Đạm phục hoạt C (CRP): Khi đo chỉ số này, người ta xác định một loại viêm tiềm năng. Hiện nay chỉ số CRP được thay bằng chỉ  số tốc độ lắng huyết cầu (VS). Bình thường thấp hơn 6mg/lít máu. Cao hơn mức này là có hội chứng viêm nặng hay trung bình.

Sinh hoá học

Đường: Nồng độ đường trong máu: Bình thường từ 0,7 - 1,10g/ lít máu. Xét nghiệm nhằm chẩn đoán xem có bệnh tiểu đường tiềm ẩn. Người mắc bệnh tiểu đường nếu qua 2 lần lấy máu xét nghiệm khi nhịn đói, nồng độ đường trong máu cao hơn 1,26/ lít máu.

Creatinine là bằng chứng về sự hoạt động của thận: Creatinine được tạo ra bình thường từ sự chuyển hoá của cơ và được thải ra qua đường tiểu tiện.Từ một chỉ số đo, người ta tính toán (tùy theo tuổi, giới tính và trọng lượng cơ thể...) và hệ số thải chất creatinine, một giá trị về khả năng vận hành tốt của bản thân. Bình thường: Thấp hơn 13mg/ lít máu. Cao hơn giá trị này thì có thể có sự thiểu năng thận.

Cholesterol: Định lượng chất cholesterol trong máu cần được thực hiện khi bụng đói. Lượng cholesterol tăng quá mức, chắc chắn có một nguy cơ tới sức khỏe tim mạch, dễ gây ra viêm phổi, nhồi máu cơ tim (CI), tai biến mạch máu não.

Người ta cũng định lượng cả cholesterol tốt (HDL cholesterol và cholesterol xấu (LDL) cholesterol).

Triglyceride (TG): là chất acid béo cũng quan trọng cần định lượng trong khung chỉ số về tim mạch.

Triglyceride dư thừa cần tới cách ăn uống không đường và không rượu. Bình thường: nếu chỉ số Triglyceride thấp hơn 1.5g hoặc 1,7g/ lít máu.

Natrium: Có công thức hoá học là ion Na, gần với sự chuyển hóa nước trong cơ thể. Bình thường: 135 -145mmot/ lít máu hoặc mEq/ lít máu. Những biến đổi so với giá trị bình thường chỉ thấy khi có rối loạn chức năng sử dụng một số thuốc chữa bệnh (dược phẩm) nào đó.

Kalium: Công thức hóa học là ion K. Bình thường 3,5 - 5 mmol/ lít máu hoặc mEq/ lít máu. Một sự thay đổi quá lớn là do có nguy cơ về chức năng tim (nhịp tim). Cần phải kiểm tra kalium trong máu khi sử dụng một số loại dược phẩm (thuốc chữa bệnh) mà thuốc lợi tiểu có xu hướng làm thay đổi nồng độ kalium trong máu.

Post a Comment

 
Copyright © 2013 Chuyện Cấm Cười (Pmanth) | Powered by Blogger